Tin mới

Nỗi đau của người vợ từ chối nhận xác chồng tử tù

Thứ tư, 29/01/2014, 16:17 (GMT+7)

Buổi trưa chiều cuối năm nắng nhàn nhạt, phải đi qua rất nhiều khúc quanh nhỏ, qua cả bãi tha ma, mới đến được ngôi nhà của vợ tử tù.

Buổi trưa chiều cuối năm nắng nhàn nhạt, phải đi qua rất nhiều khúc quanh nhỏ, qua cả bãi tha ma, mới đến được ngôi nhà của vợ tử tù.

Tử tù Nguyễn Toàn phút giây cuối đời trước khi lên bàn tiêm.

“Nghĩa tử là nghĩa tận”, dù người sống có phạm lỗi lầm gì, thì khi qua đời, những oán hận xích mích cũng nên bỏ qua, không chỉ để người chết yên lòng nơi chín suối, mà người sống cũng được thanh thản. Thế nên khi chúng tôi đăng tải câu chuyện vợ tử tù Nguyễn Toàn (ngụ tỉnh Thừa Thiên - Huế) từ chối nhận xác chồng, dư luận đặt ra nhiều câu hỏi, vì sao vợ tử tù đành đoạn không nhận xác người thân? Chiều cuối năm, một lần nữa PV quay lại tìm gặp những người trong cuộc để giải đáp thắc mắc đó.

Không thể nhận xác chồng vì quá nghèo

Hơn hai tuần sau khi lên bàn tiêm thuốc độc, tử tù Nguyễn Toàn đã được Công an tỉnh Thừa Thiên Huế lo mồ yên mả đẹp, nhưng một cán bộ TAND tỉnh, là thành viên của Hội đồng thi hành án, người trực tiếp hai lần gặp gỡ trao đổi, thuyết phục vợ tử tù nhận xác về mai táng, vẫn còn nguyên cảm xúc “khó tả”.“Một tháng trước ngày thi hành án, tôi có nhiệm vụ gặp gỡ, làm việc với người thân tử tù, để hỏi họ có nhận xác Toàn không? Trong lòng tôi là cảm xúc bị xáo động. Bởi lẽ, dù Toàn là người phải đền tội, nhưng hỏi vợ anh ta có “nhận xác” chồng, khi người chồng đang sống, là một việc hết sức khó khăn, nghiệt ngã. Người vợ tội nghiệp sẽ đối diện với thực tế cay đắng đó như thế nào? Tại UBND phường Thủy Châu, ngồi trước người phụ nữ gầy gò khắc khổ, là vợ của bị án Nguyễn Toàn, tôi phải nhẹ nhàng “loanh quanh”, làm công tác tư tưởng cho chị ấy mãi, mới đi đến vấn đề chính”, cán bộ này thổ lộ.

Theo quan sát của ông, mặt người phụ nữ khốn khổ trải qua rất nhiều cung bậc cảm xúc. Dường như có những cuộc đấu tranh cam go trong tình cảm và lý trí của chị. Nhưng cuối cùng, sau cả hai lần được thuyết phục, người phụ nữ này cho rằng, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, nên từ chối nhận xác chồng.

Buổi trưa chiều cuối năm nắng nhàn nhạt, phải đi qua rất nhiều khúc quanh nhỏ, qua cả bãi tha ma, mới đến được ngôi nhà của vợ tử tù. Ngôi nhà bé xíu lụp xụp, rách nát ba năm trước khi Toàn gây ra vụ án chấn động dư luận sát hại cùng lúc hai người đàn bà, ngôi nhà ấy nay không còn ở được nữa. Trên miếng đất chưa có “sổ đỏ”, chính quyền địa phương hai lần hỗ trợ, giúp đỡ gia đình xây được căn nhà mới. Không biết do những bức tường chưa có tiền tô trét và cánh cửa tạm bợ; hay vì những nét mặt ảm đạm của vợ con Toàn; mà không khí ngôi nhà u ám, thê lương dù sắc nắng Xuân đã hửng lên ngoài trời. Người vợ như xây xẩm mặt mày, lắp bắp lặp đi lặp lại: “Tui khổ lắm, tui khổ lắm”.

Nước mắt nhạt nhòa, người vợ tâm sự: “Tui xấu số gặp trúng “bến nước” quá đục. Nhưng đã là vợ chồng thì sao mà dứt tình dứt nghĩa được. Một mình tui nuôi ba đứa con ăn học. Gia tài của cả nhà chỉ có chiếc xe đạp rách hàng ngày tui đi mua ve chai đồng nát bán. Bản thân tui áo quần cũng chỉ đi xin đồ thải ra của người ta để mặc. Cơm thì bữa rau bữa mắm, bữa đói nhiều hơn bữa no. Con gái đầu của tui nay đang học đại học y khoa cũng chẳng có nổi cái xe mà đi, hàng ngày phải đi về bằng xe bus. Buổi trưa, cháu tìm một gốc cây trong khuôn viên trường, ăn phần cơm đạm bạc mang theo từ nhà. Con gái thứ hai của tui đang học lớp mười một, cũng học rất giỏi. Cháu có mơ ước được như chị, thi vào đại học y khoa. Nhưng tui chỉ sợ mình không gồng lên nổi để lo cho con, sợ con phải bỏ học giữa chừng”. Đứa út học lớp bốn, giỏi không kém hai chị. Nhưng tương lai của các cháu không biết sẽ ra sao, khi đến một ngày mẹ chúng nó không còn “gánh” nổi.

Người phụ nữ hình hài tàn tạ bưng mặt, đau khổ tiếp lời: “Khổ cực như thế, chạy ăn từng bữa như thế, lấy đâu ra tiền mà lo chôn cất chồng? Ngay như hôm nay là giỗ ba tui mà tui đâu có tiền đi xe về quê ở Quảng Trị được. Thương chồng lắm chứ, nhưng tui đành bất lực, phải nhờ Nhà nước lo liệu giúp thôi. Hôm hay tin chồng tui đã được chôn cất tại nghĩa trang phía Bắc TP.Huế, tui gắng lo chút hương hoa cùng con gái đầu tìm lên mộ, làm lễ mở cửa mả cho chồng. Nhà không có xe máy, cũng không có tiền đi xe thồ, may đứa cháu chở hai mẹ con bằng xe máy. Giữa đường gặp cảnh sát giao thông, biết mình vi phạm luật, con gái tui xuống xe. Chắc thấy mặt mũi mấy mẹ con tội nghiệp, không phải là người cố tình vi phạm nên “họ” linh động tha cho. Tui như càng được an ủi và cảm động hơn, khi tại nấm mồ mà tấm bia vẫn còn chưa ghi tên tuổi chồng, tui gặp cán bộ công an đưa hương hoa đến thăm”.

Như có dịp để trải những cơ cực trong lòng, chị tâm sự: “Giận thì giận, nhưng tui vẫn thương chồng. Các con tui vẫn thương cha. Mấy năm chồng tui ở trong trại tạm giam, phải mấy tháng tui và con mới đến thăm được một lần. Không có tiền nên cũng chẳng mua được thức ăn gửi vô, chỉ động viên chồng về tinh thần. Cha chồng tui mất lâu rồi, chỉ còn mẹ già. Mỗi lần tui vô thăm, chồng lại hỏi han sức khỏe mẹ. Lần thăm cuối cùng là một tháng trước ngày phải tiêm thuốc độc, chồng tui cũng bảo tui, cho anh gửi lời thăm mẹ. Anh Toàn đâu có biết, sau sự việc anh gây ra, mẹ đã buồn phiền mà mất mấy năm nay rồi. Có điều tui không nỡ nói, sợ chồng càng tuyệt vọng thêm”. Chị ngồi gục mặt thật lâu, dường như cố nén những cảm xúc thương thân, thương mẹ chồng tội nghiệp và người chồng tội lỗi. Kể từ khi Toàn bị bắt, dù chưa cách trở âm dương nhưng cũng là lúc mẹ con ly biệt. Đến lúc chết, mẹ không thấy mặt con một lần. Lúc sau, chị ngước ánh mắt ủ rũ hỏi: “Không biết chồng tui có ăn bữa cơm cuối cùng mà Nhà nước lo cho không?”. Biết chồng không ăn nổi, bữa cơm cuối cùng Toàn không hề đụng đũa, ánh mắt người vợ bạc phận đờ đẫn.
 Chúng tôi kể lại câu chuyện nghe được hôm Nguyễn Toàn “dừng chân” tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Chiều hôm đó, biết nơi đây có nhà tiêm thuốc độc, Toàn lờ mờ đoán rằng đây là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời. Lại biết trong trại tạm giam này cũng có một tù nhân quê Thừa Thiên - Huế mang án tử hình vì phạm tội mua bán ma túy, suốt đêm họ không hề ngủ, “bắt chuyện” để nói những lời động viên nhau. Buổi sáng ngày 30/12/2013, trước khi ra khỏi khu vực giam giữ, đến phòng làm thủ tục, lên bàn tiêm thuốc độc, Toàn xin phép được đứng ngoài “chào vọng” vào phòng giam tử tù đồng hương với mình. Và chấp nhận thỉnh cầu cuối cùng của Nguyễn Toàn, một quản giáo trại tạm giam Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, người ba năm qua gần gũi, động viên Toàn sống tốt những ngày còn lại, đã chủ động đưa tay ra, thực hiện một cái ôm siết chặt, đem đến cho Toàn chút tình người ấm áp, điểm tựa tinh thần trước lúc bị thi hành án tử. Người vợ tử tù dường như phần nào được an ủi. Chị tâm sự vì hoàn cảnh quá khó khăn ngặt nghèo, chị phải từ chối nhận xác chồng, nhưng trong giây phút cuối trước giờ đền tội, người chồng tội lỗi ấy vẫn nhận được tình người ấm áp, vậy là chị đôi chút yên lòng. “Ai làm sai thì phải trả giá trước pháp luật, nhưng người thân ruột thịt thì không bao giờ bỏ nhau. Con gái lớn của tui nói, chờ nó học xong kiếm được việc làm, sẽ xin chuyển mộ cha về nghĩa trang gần nhà, để tiện gần gũi, đi lại chăm nom mộ phần”, người vợ nói.

Nghĩa địa thêm thê lương chiều đông lạnh cuối năm

Từ nhà tử tù Nguyễn Toàn đến nhà bà ngoại nạn nhân Dương Thị Thúy không cách bao xa. Căn nhà bé xíu tồi tàn với những bức tường xây bằng bờ lô, chưa bao giờ được tô trét, càng tróc lở, ẩm mốc bởi thời gian. Sau góc bếp, bà Nguyễn Thị Chấp (75 tuổi, bà ngoại nạn nhân), đang cùng con gái là chị Dương Thị Bé (44 tuổi, mẹ của nạn nhân) cắm cúi lau từng tàu lá chuối dùng để gói bánh bột lọc bán buổi chiều. Nhắc đến chuyện đứa cháu xấu số, bà Chấp đau đớn co rúm mặt, bật khóc. Thấy mẹ khóc, chị Bé phân trần: “Tui chỉ có công đẻ, còn mẹ tui mới là người nuôi dưỡng cháu Thúy từ lúc còn ẵm ngửa”. Mười bảy năm thương yêu, chăm sóc, cuộc đời thiếu nữ đang độ mơn mởn, bỗng dưng chết một cách quá oan ức như thế, bà lão không thể nào nguôi quên nỗi đau, nỗi thương xót cháu được. Từ khi cháu ngoại bị sát hại, bà lão ngày càng gầy mòn, sức khỏe yếu đi nhiều, sống leo lét từng ngày.

Bà Chấp gầy gò nhỏ thó, mái tóc bạc phơ và nét mặt khắc khổ queo quắt. Bà lão lặng đi rất lâu rồi mới cất nổi lời hồi tưởng về đứa cháu xấu số tội nghiệp. Số phận thôn nữ này thiệt thòi bất hạnh từ lúc còn là bào thai nằm trong bụng mẹ. Mẹ Thúy trót có thai với người đàn ông mà chị thương yêu, nhưng người này “truất ngựa truy phong”, chối bỏ luôn giọt máu của mình. Không có đám cưới nào. Thúy được sinh ra là đứa trẻ không cha. Chẳng bao lâu, mẹ Thúy lấy chồng, đi theo chồng. Thúy ở lại với bà ngoại. Bà làm bánh bán rong ở miền quê nghèo, mấy đồng tiền lẻ kiếm được chật vật. Bà cháu cực khổ cơm mắm cơm muối nuôi nhau.

Thôn nữ thiếu sự chở che của cha mẹ, thiếu thốn đủ thứ trên đời, tính tình nhút nhát, hay sợ điều này điều kia. “Hôm bị giết, Thúy đang ở nhà tui thì chồng tui đuổi con bé về nhà bà ngoại. Bà không có ở nhà. Trời tối, Thúy sợ mới đi theo chị Hiền. Mục đích của Toàn rủ chị Hiền đi chơi là để giết chị Hiền, cướp nữ trang. Con tui lỡ đi theo rồi, Toàn sợ lộ chuyện nên mới giết luôn. Con Thúy chết oan như vậy đó. Đêm đó con không về, tui và mẹ hốt hoảng vừa la khóc chạy dọc sông tìm nhưng vẫn bặt tăm. Đến lúc xác chị Hiền nổi lên, Toàn bị bắt, gia đình tui mới biết rõ cơ sự. Vậy mà chị Hiền được chôn cất mấy ngày rồi, xác con tui vẫn chưa tìm được. Đến ngày mở cửa mả (ba ngày sau khi mai táng - NV) chị Hiền, mấy người đi vớt bèo mới vô tình đụng xác con tui”, người mẹ đau đớn nhớ lại.

Bà ngoại Thúy lặng lẽ đến bên bàn thờ đứa cháu xấu số. Trong di ảnh là cô gái xinh xắn, đang ở tuổi xuân phơi phới. Nhìn vẻ mặt tươi rói của cháu, nước mắt bà lão lại rơi. “Vừa rồi, tui hay tin Toàn mới thi hành bản án tử hình, đền tội. Giờ thì kẻ giết cháu tui cũng phải chết bởi hình phạt của pháp luật. Nhưng biết tin này, tui cũng chẳng thấy nhẹ lòng chút nào, vì cháu tui cũng không thể sống lại được nữa”, bà lão kể. Sau khi Toàn gây án rồi bị bắt, bị xử tử hình, thỉnh thoảng vợ Toàn có qua thăm, đưa cho bà lão mấy lon gạo. Một vài lần, bà bảo đừng đưa qua nữa vì mấy mẹ con “bên đó” cũng khổ.

Từ ngôi nhà bé xíu cũ nát của bà ngoại Thúy ra nghĩa địa chỉ vài trăm mét. Mẹ Thúy bỏ dở công việc, rút trên bàn thờ nắm hương, cắm cúi dẫn khách ra chỗ con nằm. Băng qua những bụi cỏ dại ken dày lối đi, qua những ngôi mộ nằm lộn xộn, không hàng lối trong nghĩa địa, mẹ Thúy ngồi thụp xuống cạnh ngôi mộ chỉ xây được bao quanh đơn sơ, nghẹn ngào: “Nghèo quá nên gia đình tui không thể xây cho con ngôi mộ đàng hoàng. Thường xuyên ra thăm, nhổ cỏ mà cỏ dại vẫn chen lên mọc”. Tỉ mẩn nhổ từng chân cỏ trên mồ con, mẹ Thúy thảng thốt: “Nhiều lần, những người sống gần bờ sông, nơi con tui bị kẻ ác dìm chết, kể họ nằm mơ thấy Thúy “về” khóc nói “cho cháu xin bộ áo quần, cháu không lên được, ở dưới này lạnh quá”. Tui không tin vì cho rằng điều đó là hoang đường. Nhưng tui và mẹ như đứt từng khúc ruột vì nghĩ đến cảnh con chết thảm rồi phải nằm lạnh lẽo dưới lòng sông cả tuần lễ mới tìm thấy xác. Trong sâu thẳm, tui và mẹ cũng cầu mong Thúy về báo mộng, để lại lần nữa được thấy con, thấy cháu, dù chỉ là trong giấc mơ và âm dương cách biệt”.

Tuy nhiên những gì còn lại của các nạn nhân đã khuất chỉ là tấm di ảnh và nấm mồ câm lặng. Mộ của nạn nhân Hiền cách nơi Thúy nằm không xa. Những chân hương bạc phếch chứng tỏ đã từ lâu không có người viếng thăm. “Mẹ mất sớm, Hiền chỉ có cha và mẹ kế. Hiền vào Gia Lai làm ăn sinh sống, năm đó về quê là để chăm cha đang bị bệnh, thì gặp nạn. Cô ấy thiệt mạng một thời gian thì người cha cũng sớm ra đi. Có lẽ vì bệnh tật lại thêm nỗi đau mất con nên cha Hiền không chịu đựng nổi. Bây giờ nhà chỉ còn người chú. Việc hương khói có lẽ cũng do người bà con này lo liệu”, mẹ Thúy ngậm ngùi khi kể về người hàng xóm xấu số cùng chết thảm với đứa con gái của mình.

Người mẹ đứng lặng thật lâu trước mộ con. Rồi mấy năm sau, có thể hài cốt của Nguyễn Toàn cũng được gia đình đưa về nơi đây. Hung thủ và người bị hại, tất cả họ chỉ còn lại là xương cốt, dưới những nấm mồ câm lặng cạnh nhau. Riêng những day dứt, những nỗi đau xé lòng của người ở lại là còn ở lại.

Từ cuối tháng 2/2010, chị Nguyễn Thị Hiền (SN 1964, ngụ xã Tân Sơn, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai) về quê chăm sóc bố bị bệnh nặng ở khu phố Phù Nam 2 (phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Do có mối quan hệ họ hàng nên trong khoảng thời gian này Nguyễn Toàn (SN 1971) thường xuyên tiếp xúc với chị Hiền.

Khoảng 18h30’ ngày 15/5/2010, Toàn biết chị Hiền có đeo một số nữ trang trên người nên tìm cách chiếm đoạt, gọi điện thoại di động cho chị Hiền hẹn tối đi uống cà phê. Chị Hiền đồng ý và rủ thêm cháu Dương Thị Thúy (SN 10/2/1993, người cùng địa phương) đi cùng. Khoảng 19h30’ cùng ngày, Toàn dùng xe đạp chở chị Hiền và cháu Thúy đi ra bờ sông Đại Giang, sát hại cả hai người, cướp tài sản, dìm xác xuống sông. Ngày 23/8/2010, Toàn bị tuyên phạt mức án tử hình.

Con đường đến cái chết của Nguyễn Toàn có lẽ lận đận bậc nhất lịch sử thi hành án Việt Nam. Ba năm nằm trong trại giam chờ thi hành án, Thừa Thiên - Huế chưa có phòng tiêm thuốc độc nên phải nhờ tỉnh Nghệ An. Toàn có vợ và ba người con. Vợ Toàn dứt khoát từ chối, không nhận xác chồng vì cho rằng gia đình quá khó khăn. Tỉnh Nghệ An cũng không chấp nhận cho chôn xác tử tù, nên sau khi thi hành xong, công an đưa xác tử tù quay lại Huế chôn cất. Nghĩa tử là nghĩa tận, nên sau khi thi hành án và khâm liệm tử tù chu đáo, cán bộ chiến sĩ phải thực hiện hành trình vượt 400km trở về Huế, không được phép ngừng nghỉ, để kịp mai táng cho Toàn “mồ yên mả đẹp” ngay trong buổi chiều hôm đó. Từ 10h đến 16h ngày 30/12/2013, trên quốc lộ 1A có một đám tang “đặc biệt”. Ba chiếc xe của công an đi ra từ nhà thi hành án Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An (trong đó một xe chở thi thể Nguyễn Toàn) chạy gấp rút vào hướng phía Nam làm lễ tang cho Toàn ở nghĩa trang TP.Huế. Tấm bia trên mộ Toàn trắng trơn, không một dòng chữ.

Theo Pháp Luật Thời Đại

Theo dõi Tinmoi.vn trên Tinmoi.vn - Google news