Tin mới

Báo Mỹ: Đã đến lúc Washington bán vũ khí, giúp Việt Nam tự vệ

Thứ tư, 16/07/2014, 14:30 (GMT+7)

(Tinmoi.vn) Tờ Wall Street Journal hôm 15/7 đăng bài viết của hai chuyên gia về an ninh châu Á của Mỹ cho rằng, đã đến lúc Mỹ nên bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để tăng khả năng tự vệ trước Trung Quốc, và cũng là “phản ứng cơ bắp” của Mỹ trước sự hung hăng thái quá của Trung Quốc trong khu vực.

(Tinmoi.vn) Tờ Wall Street Journal hôm 15/7 đăng bài viết của hai chuyên gia về an ninh châu Á của Mỹ cho rằng, đã đến lúc Mỹ nên bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để tăng khả năng tự vệ trước Trung Quốc, và cũng là “phản ứng cơ bắp” của Mỹ trước sự hung hăng thái quá của Trung Quốc trong khu vực.

 

Hôm qua, Wall Street Journal đăng bài viết của hai tác giả là ông Richard Fontaine, Chủ tịch Trung tâm An ninh mới của Mỹ (CNAS); và ông Patrick M. Cronin, cố vấn cao cấp và Giám đốc cấp cao của Chương trình an ninh châu Á - Thái Bình Dương (thuộc CNAS).

Theo tác giả bài báo, hành động đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào đầu tháng 5/2014 của Trung Quốc đồng nghĩa với việc nước này đã coi thường luật pháp quốc tế, mưu đồ tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động xa hơn trên Biển Đông. Washington và các đối tác châu Á đang phải vật lộn để điều chỉnh một phản ứng thích hợp với hành vi này.

Mỹ có một lợi ích trong việc chống lại sự áp đặt của Trung Quốc ở Thái Bình Dương và thúc đẩy một hệ thống mở, dựa trên luật lệ ở khu vực vốn đã tạo điều kiện các nền kinh tế châu Á phát triển. Tuy nhiên, việc Trung Quốc huy động các lớp tuần tra của tàu quân sự, tàu bảo vệ bờ biển và tàu cá thành vòng vây xung quanh giàn khoan dầu  đã khiến mối nguy hiểm của sự leo thang rõ ràng.

Theo hai tác giả bài báo, đã đến lúc Mỹ nên bán vũ khí cho Việt Nam để tăng khả năng phòng thủ trước Trung Quốc

Tác giả nhận định, việc đâm tàu đối phương là một chiến thuật thông thường của Bắc Kinh và trên thực tế, một số tàu đánh cá Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm. 

Mỹ làm thế nào để phản ứng với những hành vi cưỡng bức đó của Trung Quốc cho hiệu quả ?

Câu trả lời nằm trong mối quan hệ với Việt Nam. Năng lực tự vệ để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đang bị đe doạ bởi sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Trong khi đó, Washington và Hà Nội lại chỉ có những bước đi rất khiêm tốn để bình thường hóa quan hệ quân sự thông qua các cuộc tập luyện chung và đối thoại chiến lược. Thay vì chỉ có những động thái "dè dặt" như trước, Mỹ nên thực hiện các bước bổ sung để tăng cường khả năng tự vệ của Việt Nam mà trong đó, quan trọng nhất, Mỹ nên dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Phạm vi và chủng loại hỗ trợ quân sự trực tiếp của Mỹ cho Việt Nam phải được liên kết với những cải tiến có thể ở vài lĩnh vực. Việc này cũng nên được giới hạn ở những loại vũ khí phòng thủ hữu ích nhất trong việc đối phó sự tấn công từ bên ngoài như: hệ thống cảnh báo hàng hải, tàu hộ vệ và các tàu thuyền khác, vũ khí chống hạm.

Trong buổi điều trần gần đây trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, Đại sứ Mỹ đang được đề cử tại Việt Nam, ông Ted Osius đã cho thấy dấu hiệu sẵn sàng của chính quyền Obama xem xét dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Hiện dự thảo về việc bỏ cấm vận vũ khí sát thương này đang được lưu hành ở Quốc hội Mỹ. Chính quyền Obama có thể tự dỡ bỏ lệnh cấm này, kể từ khi lệnh cấm hiện tại được gắn với một sắc lệnh và không điều chỉnh theo luật pháp Mỹ. Tuy nhiên, một sự chứng thực mạnh mẽ từ Quốc hội Mỹ cùng với hành động thực tế của cơ quan hành pháp sẽ là minh chứng rõ ràng và có sức nặng nhất cho hành động này.

Tàu hải quân Việt Nam

Dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sẽ giúp tăng cường năng lực răn đe của Việt Nam khi nước này đang chịu áp lực gia tăng từ nước láng giềng. Điều này cũng hoàn toàn tự nhiên nối tiếp quyết định vào năm 2007 của chính quyền Bush cho phép xuất khẩu các mặt hàng quốc phòng không gây chết người sang Việt Nam.

Việc bỏ cấm vận vũ khí với Việt Nam cũng sẽ củng cố các yếu tố khác của mối quan hệ song phương Việt - Mỹ, trong đó có chuyến viếng thăm cảng của Hải quân Mỹ và sự hợp tác ngoại giao với các nước có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông như Malaysia và Philippines. Điều này sẽ không chỉ đại diện cho một bước tiếp theo hợp lý trong lộ trình dài hướng tới việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ, mà cũng có thể phục vụ như một chất xúc tác tiềm năng cho việc mở cửa hơn nữa của Việt Nam.

Những tiến bộ thực hiện bởi hai nước kể từ khi bắt đầu bình thường hóa quan hệ là rất phi thường. Từ chỗ là kẻ thù, năm ngoái (2013) hai nước đã ký Đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - Mỹ, nhằm nâng cao năng lực hàng hải và đẩy mạnh quan hệ kinh tế song phương. Việt Nam đã gia nhập nhóm các nước Đàm phán hiệp định thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hà Nội ủng hộ một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp ở Biển Đông và biển Hoa Đông, đồng thời duy trì quan hệ quốc phòng chặt chẽ hơn với Washington.

Tàu hộ vệ của hải quân Mỹ từng ghé thăm Đà Nắng

Trong khi đó, những động thái mới nhất của Trung Quốc ngoài khơi bờ biển Việt Nam sẽ khó có thể là cuối cùng. Trung Quốc sẽ còn tiếp tục đưa các giàn khoan dầu, tàu cá, lực lượng hải quân và không quân đến khu vực này. Trung Quốc sẽ tiếp tục khai thác tài nguyên, áp đặt luật lệ của mình, yêu sách đòi các vùng đất, và cố làm cho tuyên bố trắng trợn sở hữu của Biển Đông thành hiện thực.

Mỹ cần cách tiếp cận ngoại giao cơ bắp hơn đối với hành vi xấu này của Trung Quốc. Và một phần của phương pháp tiếp cận này là phải cộng tác chặt chẽ hơn với Việt Nam, một trong số ít các quốc gia kiên quyết bảo vệ lợi ích của mình.

Trong bốn thập niên kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, hai kẻ thù thời chiến tranh lạnh đã trở thành đối tác mới, trong một môi trường chiến lược đang biến đổi bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ và Việt Nam đều tìm kiếm các mối quan hệ hiệu quả với Bắc Kinh cũng như cùng chống lại các hành vi thái quá của Trung Quốc, nhưng cũng phải thừa nhận rằng khả năng tự vệ là rất quan trọng khi đối mặt với sự quyết đoán của Trung Quốc. Bây giờ là lúc Mỹ giúp Việt Nam tự vệ.

 

Yên Yên (Lược dịch theo Wall Streer Jounal)

Theo dõi Tinmoi.vn trên Tinmoi.vn - Google news